Ví dụ Chi phí sử dụng vốn

Giả sử một công ty cân nhắc đảm nhiệm một dự án hoặc một hình thức đầu tư nào đó, ví dụ lắp đặt một bộ phận máy móc mới tại một trong các nhà máy của họ. Việc lắp đặt máy móc mới này sẽ tốn kém tiền bạc; trả tiền cho các kỹ thuật viên để lắp đặt máy móc, vận chuyển máy móc, mua các bộ phận… Máy móc mới này cũng được kỳ vọng sẽ tạo ra lợi nhuận mới (nếu không, giả sử công ty quan tâm đến lợi nhuận, công ty sẽ không cân nhắc dự án này ngay từ đầu). Vì vậy, công ty sẽ tài trợ cho dự án bằng hai loại tài trợ: phát hành nợ, bằng việc đi vay hay các công cụ nợ khác như trái phiếu, và phát hành vốn cổ phần, thông thường bằng việc phát hành nhiều cổ phiếu mới.

Các chủ nợ và cổ đông mới, người mà có quyền quyết định đầu tư vào công ty để tài trợ cho máy móc mới này sẽ kỳ vọng về lợi tức đầu tư của họ: chủ nợ yêu cầu trả lãi và cổ đông yêu cầu trả cổ tức (hay lãi về vốn từ việc bán cổ phiếu sau khi giá trị của chúng tăng lên). Ý tưởng ở đây là một phần lợi nhuận được tạo ra từ dự án mới này sẽ được sử dụng để trả nợ và làm hài lòng các cổ đông mới.

Giả sử một trong những nguồn tài trợ cho dự án mới này là trái phiếu (được phát hành ở mệnh giá) 200,000 đô la với lãi suất 5%. Điều này có nghĩa công ty sẽ phát hành trái phiếu cho một số nhà đầu tư sẵn sàng, những người sẽ đưa 200,000 đô la cho công ty mà sau đó nó có thể sử dụng, trong một khoảng thời gian cụ thể (thời hạn của trái phiếu) để tài trợ cho dự án của mình. Công ty cũng sẽ thanh toán thường xuyên cho nhà đầu tư 5% số tiền ban đầu mà họ đã đầu tư (10.000 đô la), ở lãi suất theo năm hay theo tháng tùy theo những điều kiện cụ thể của trái phiếu (những điều này được gọi là tiền trả lãi theo năm). Vào cuối thời hạn của trái phiếu (khi trái phiếu đáo hạn), công ty sẽ trả lại 200,000 đô la mà họ đã vay mượn trước đó.

Giả sử một trái phiếu có thời hạn 10 năm và khoản tiền lãi được chi trả hàng năm. Điều này có nghĩa nhà đầu tư sẽ nhận được 10,000 đô la mỗi năm trong vòng 10 năm, và cuối cùng nhận lại 200,000 đô la vào cuối năm thứ 10. Theo quan điểm của nhà đầu tư, khoản đầu tư 200,000 đô la của họ sẽ được lấy lại vào cuối năm thứ 10 (không kéo theo lãi hoặc lỗ), nhưng họ cũng sẽ thu được các khoản tiền lãi; 10,000 đô la mỗi năm trong vòng 10 năm sẽ tạo ra lợi nhuận ròng 100,000 đô la cho nhà đầu tư. Đây là khoản đền bù cho nhà đầu tư qua việc chấp nhận rủi ro khi đầu tư vào công ty (bởi vì, nếu dự án thất bại hoàn toàn và công ty bị phá sản, sẽ có khả năng nhà đầu tư không nhận lại được tiền của mình).

Khoản lãi ròng 100,000 đô la này được chi trả bởi công ty cho nhà đầu tư như một phần thưởng cho việc đầu tư tiền của họ vào công ty. Về bản chất, đây chính là số tiền công ty phải trả khi vay 200,000 đô la. Đó là chi phí để huy động 200,000 đô la vốn mới. Vì vậy, để huy động 200,000 đô la, công ty phải trả 100,000 đô la từ lợi nhuận của họ, do đó chúng ta có thể nói rằng đây là chi phí nợ, trong trường hợp này, là 50%.

Về mặt lý thuyết, nếu công ty huy động thêm vốn bằng cách phát hành thêm trái phiếu tương tự, các nhà đầu tư mới cũng sẽ mong đợi lợi tức đầu tư của họ là 50% (mặc dù trên thực tế, lợi tức yêu cầu thay đổi tùy thuộc vào quy mô đầu tư, thời gian tồn tại của khoản vay, rủi ro của dự án…)

Chi phí vốn chủ sở hữu tuân theo cùng một nguyên tắc: các nhà đầu tư kỳ vọng khoản lợi tức đầu tư cụ thể, và công ty phải trả số tiền này để các nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư vào công ty. (Mặc dù chi phí của vốn chủ sở hữu được tính toán khác nhau bởi vì cổ tức, không giống như thanh toán lãi, không nhất thiết là một khoản thanh toán cố định hoặc một yêu cầu pháp lý).